Bản gửi tạp
chí NGÔN NGỮ, ngày 12.5.2012
Lý thuyết thanh chắn X (X- bar Theory)
GS TS Nguyễn Đức Dân
về trang chủTrong
bài [VĐQ] viết về “X – bar Theory” trong ngữ pháp
tạo sinh của N. Chomsky, tác giả bài này không hề
trích dẫn một công trình cụ thể nào, không dẫn nguồn gốc
của khái niệm X-bar nhưng
trong “tài liệu tham khảo” chỉ nêu một công trình
nổi tiếng Chomsky viết năm 1965. Điều này
dẫn tới hai hiểu lầm đáng tiếc:
hoặc khái niệm X-bar
mặc nhiên là của Chomsky và xuất hiện từ 1965; hoặc khái niệm X-bar không phải
của Chomsky còn của ai thì không rõ. Vì vậy, trong bài
này, tôi muốn được trình bày rõ khái niệm này.
1. Ký pháp “X-bar”: lịch sử và khái niệm cơ
bản
Trong bài giảng “Remarks on
nominalisation” vào năm 1967 N.
Chomsky đã đưa ra khái niệm “X - bar”, nhưng bài này chính thức in
năm 1970 trong [Jacob &
Rosenbaum] . Vì vậy khi dẫn khái niệm này, người
thì ghi 1967 người thì ghi
1970.
Trong
mô hình ngữ pháp của N. Chomsky có các qui tắc viết lại
(rewriting rule) A ® B – C, nghĩa là khi gặp ký
hiệu A trỏ một phạm trù A nào đó chúng ta sẽ
viết lại A thành chuỗi hai ký hiệu B – C. Nếu ký
hiệu B lại được viết lại thành B ® D – E chẳng
hạn, thì phạm trù A được miêu tả thành
chuỗi A = [D – E] – C.
Dưới
dạng sơ đồ cây, cấu trúc của A
được miêu tả như hình 1 dưới đây:
Hình 1
N. Chomsky
[1967] nhận xét như sau:
“Qui tắc
viết lại những phạm trù này thường là:
(1)
(a) NP ® N Comp
(b) VP ® V Comp
(c) AP ® A Comp
ở đó
Comp là bổ ngữ
Qui tắc
viết lại Comp sẽ là:
(2)
Comp ® NP, S, NP S, NP PP, PP PP, …
Cấu
trúc của ba qui tắc (a) – (c)
trên đây giống nhau. Đều có phần trung tâm X
kèm theo là bổ ngữ. Và phạm trù Comp (bổ ngữ)
không hề có vai trò quan trọng trong phép biến
đổi. Vậy thì có thể khái quát: Thay ba qui
tắc viết lại ở (6) bằng một lược
đồ duy nhất, ở đó các phạm trù từ
vựng N (danh), V (động), A (tính) được thống nhất thay bằng
một biến X. Chúng ta dùng ký
hiệu để
chỉ một cú đoạn mà trung tâm là X. Có gạch ngang trên ký hiệu X nên
được gọi là X –
bar (thanh chắn X).
Các qui tắc viết
lại cơ sở để đưa vào các phạm trù
N, V, A là một lược đồ qui tắc (8):
(3)
® X…
Dấu
ba chấm nghĩa là có những phạm trù bổ ngữ
khác nhau có thể đứng vào vị trí X. Đó là N, V hay A. Chúng ta nói chi
phối X.
Tương
tự, cú đoạn trực tiếp chi phối sẽ
được ký hiệu
là (thanh
chắn kép, X - bar-bar, X double
bar). Vậy thì, các cú đoạn chi phối trực
tiếp , , sẽ
lần lượt ký hiệu
bằng , . Để thống nhất cách ghi cho
ký hiệu mới này, chúng ta
gọi cú đoạn gắn kết với , , trong cấu
trúc , , là “thành phần
đặc thù” (specifier) của chúng. Thành phần
đặc thù của được ký
hiệu là (Spec, ), nghĩa là ta có qui tắc viết lại:
® (Spec, )
Qui tắc viết lại
đầu tiên của một ngữ pháp sẽ là:
S
® ”
Từ
đây sơ đồ
của thanh chắn kép X như hình 4:
Hình 2
(Spec,
) sẽ được phân tích thành
định ngữ , (Spec, ) sẽ là những trợ động từ (auxilary), có thể là
những trạng từ thời gian, (Spec, ) là những yếu tố gắn với
tính từ trong cú đoạn tính từ (như cấu trúc
so sánh, very,…).
Vì lý do
kỹ thuật vẽ hình và in ấn, để
đơn giản chúng ta cũng có thể dùng ký hiệu X’ thay cho ký
hiệu , và X’’ thay cho
.
2. Sơ đồ cây một cú đoạn miêu
tả theo ký pháp thanh chắn
X thế nào?
Quan
sát 3 cú đoạn sau:
(1) Privatize hospitals
(2)To
privatize hospitals
(3)
Plans to privatize hospitals (những kế hoạch tư
hữu hóa bệnh viện)
Cấu
trúc của (1) là một động ngữ (VP). Dễ thấy VP = V – N. Ở đây,
V là trung tâm, cũng gọi là chính
tố (head) . Và (1) là cấu trúc hướng tâm. Người ta nói cả cấu
trúc này là một chiếu
xạ của động
từ trung tâm privatize (tư hữu hóa).
Cấu
trúc của (2) là một cú
đoạn nguyên thức (infinite
phrase), ký hiệu là IP. Khái niệm này được N.
Chomsky [1981] đưa ra
năm 1981. Đây không phải là một VP, vì nó và VP nhận những kiểu phân
bố khác nhau. Dễ thấy
điều này qua những
cặp câu đúng/sai dưới đây:
(4)
(a) They ought
[ to privatize hospitals]
(b) *They
ought [ Æ privatize hospitals]
(5)
(a)
They should [ Æ privatize hospitals]
(b) * They
should [ to privatize hospitals]
Trong
cú đoạn (2) thì to có phạm trù biến tố
I, cũng viết INFL
(Inflection). Nó là trung tâm của
cú đoạn nguyên thức IP, và gắn kết với VP.
Xem thêm ví dụ (14)
Dễ
thấy (3) là danh ngữ chứa
(2). Danh ngữ (3) này có trung tâm là “plans”, nó có thể
dùng để trả lời câu hỏi đại loại
như “Họ không hài lòng về những điều gì?”
Sơ đồ cấu trúc
của (2) và (3) được phân tích như hai hình 3 và 4 dưới đây:
Hình 3 Hình 4
Danh ngữ (NP) “several of John’s proofs the theorem” được N. Chomsky [1967] phân tích như sau: “proofs the theorem” là danh ngữ trung tâm nên được ký hiệu là . Cái đặc thù của nó là “several of John” sẽ
được ký hiệu là
(Spec, ). Trong “proofs the theorem” thì danh từ proofs là trung tâm, nó ở dạng số nhiều, và
xuất phát từ động từ prove, nên
được ghi nhận là có nét nghĩa [prove, pl]. Vậy nên danh ngữ trên được
phân tích đại để như hình dưới đây:
Sau này,
người ta miêu tả lại như hình 11 và 14 những
cú đoạn NP tương tự.
3.
Mở rộng
Ký pháp “thanh chắn – X”
ngay lập tức được chấp nhận
rộng rãi. Nó như một
phương tiện dùng
để miêu tả ngôn ngữ. Nhiều công trình đã phân
tích cấu trúc của những ngôn ngữ khác nhau theo cách dùng ký pháp thanh chắn.
Chúng ta minh họa và giải thích thêm những điều N.
Chomsky đã viết.
Trên
đây, chúng ta phân tích (1) – (3) thành những VP, IP và NP. Là cú
đoạn, nhưng chúng có thể xuất hiện trong
lời nói thường ngày với cương vị là câu. Chẳng hạn, (1) - (3) có thể lần lượt dùng
để trả lời những câu hỏi sau:
(1A)
Nhà nước đang có kế hoạch gì? [ Đáp: privatize hospitals]
(2A)
Mục tiêu chính của kế hoạch này là gì? [ Đáp: to
privatize hospitals]
(3A)
Xã hội không đồng tình
với điều gì? [ Đáp: Plans to privatize hospitals]
Ở
cả ba cú đoạn (1) – (3) thì yếu tố trung tâm đứng đầu. Bổ
ngữ luôn luôn đứng bên phải nó. Đây là một
đặc điểm của tiếng Anh. Và tiếng
Việt cũng vậy. Điểm lưu ý là trong “to
privatize hospitals” thì to là trung
tâm. Điều này chứng minh được qua những
cặp câu chấp nhận bổ ngữ là “to privatize
hospitals” nhưng không chấp nhận bổ ngữ là “privatize hospitals” , và ngược
lại. Xem [Radford, 1999,
mục §2.5] Trong
một cú đoạn, ngoài trung tâm có thể xuất
hiện một thành phần đặc thù (specifier). Thế
nào là một đặc thù?
Trong những cú đoạn dưới đây, phần
gạch dưới là trung tâm còn phần in nghiêng là
đặc thù:
(6)
(a)
straigh to bed
(b) such a pity
(c) Each teasing the other
(d) Why
are we waiting?
(e) Government plans to
privatize hospitals
Chúng
ta thấy phần đặc
thù của những cú đoạn trên luôn luôn đứng
đầu tiên. Vậy cấu trúc của (9a) – (9e)
đều là “đặc thù –
trung tâm – bổ ngữ”. Sơ
đồ của chúng đều như hình 4 trên đây.
Một ví dụ khác: cụm
động từ “never eats candy” có “V = eats” là trung tâm. Và = eats candy; trạng ngữ never là
phần đặc thù (Spec) của
. Còn VP, chính là . Hình 5, sơ đồ cấu trúc
của nó, cũng khuôn theo hình
4.
Hình 5
Có
một khái niệm liên quan đến ký pháp thanh chắn. Đó là sự chiếu
xạ (projection).
Sơ đồ
cấu trúc của danh ngữ , như (9e) “Government plans to privatize
hospitals”, thế nào? Danh từ “plans” có bổ ngữ là
một IP (to privatize hospitals),
chúng gắn kết với nhau thành danh ngữ NP và viết
là (theo ký pháp thanh chắn). Cái đặc thù của là danh từ
“government”. Trung tâm của là “plans”. bao trùm “plans”.
Người ta nói: “plans” đã chiếu xạ vào . Tiếp đến, lại chiếu
xạ vào bao trùm nó. Vì
vậy, là một
chiếu xạ trung gian (intermediate) của N (plans). Ta nói , tức là (9e), là một chiếu xạ
cực đại (maximal) của N (plans). Trên đây là sự chiếu
xạ của một danh từ. Cũng có sự chiếu
xạ của một động từ, một tính từ,
một giới từ thành động ngữ, tính ngữ,
giới ngữ. Một cách khái quát, khi mở rộng
một chính tố (tức là từ trung tâm) X ta có một chiếu xạ của nó. Một chiếu xạ tối thiểu của X là chính X. Gọi là chiếu
xạ trung gian của X vì còn nằm trong
một chiếu xạ của nó. Chúng
ta gọi là chiếu
xạ cực đại của
X vì nó không còn mở rộng
hơn nữa.
Như vậy, trong câu “He is proud of
you” (Nó tự hào về
bạn) thì tính ngữ “proud of you”
là chiếu xạ
cực đại của proud vì không còn tính ngữ nào bao
trùm tính ngữ này nữa. Còn trong câu “He is proud” (Nó thì kiêu
căng), proud vừa là chiếu xạ cực tiểu
(bởi lẽ proud không là chiếu xạ của một
trung tâm nào khác ngoài chính nó), vừa là chiếu xạ cực
đại (bởi lẽ, proud nó không nằm trong một
chiếu xạ nào khác).
Như
vậy , phần trên của sơ đồ (9e) như hình 6 dưới đây:
hình 6
Sơ đồ cấu trúc của một giới ngữ được
miêu tả thế nào? Để miêu tả VP “never
eats candy in
school”, ta nhận thấy có
giới ngữ PP (prepositional phrase). Vậy ở hình 5, mở
rộng nút thành “ - PP” ta
sẽ được sơ đồ của nó, như hình
7:
Hình 7
Lại
xét giới ngữ mở rộng trong lời đáp
ở đoạn thoại
sau:
SP1:
Ông A bỏ phiếu thế nào?
SP2: (10) Against
government plans to privatize hospitals
Cụm
giới ngữ trên đây
được hình thành do gắn kết giới
từ Against với danh
ngữ (9e). Vậy sơ
đồ của nó (hình 8)
sẽ có đỉnh là một PP, rẽ hai nhánh P
(against) và NP = (= 9e)
hình 8
Sơ đồ cấu trúc của một động ngữ mở
rộng miêu tả thế nào?
Chúng
ta xét động ngữ mở rộng trong
lời đáp ở
đoạn thoại sau:
SP1:
Những người phản đối sẽ làm gì?
SP2: (11) vote
against government plans to privatize hospitals
Động
ngữ /VP ở lời đáp gồm động từ vote gắn kết với giới ngữ /PP (10). Sơ đồ cấu trúc
của (11) là hình (9) có đỉnh là một VP với
hai nhánh rẽ là V (vote) và PP (10)
Hình 9
Câu được
miêu tả thế nào?
Biết
cách miêu tả NP, VP, AP, PP
như đã trình bày ta dễ dàng miêu tả
được sơ đồ cấu trúc của hai câu
dưới đây:
(12)
The new teacher read a short book in the
library
(13)
Mary
read her proof of the problem
Vì S ® (= N’’ V’’), nên :
ở
(12), = the new
teacher = the – = the – new
teacher = the – adj – N
= read a short book – in the library = - PP = V – a short book – PP
“a short book”
là một giống
như “the new teacher”.
Vậy câu
(12) được phân tích
như hình 10 dưới đây:
Hình 10
Trong câu (13)
bổ ngữ của
động từ là danh
ngữ = “her proof
of the problem”. Nó chi
phối có trung tâm là N = proof.
Vậy = “her proof
of the problem” = her – - PP. Vậy câu
(13) có sơ đồ S ® N” – V” = Mary – [ V – N”]
= Mary – [ read – N”]. Sơ
đồ bổ ngữ N” này được R. Van Valin
[2001] phân tích như hình 11:
Hình 11
4. Lý thuyết thanh chắn – X
hiện thời
Cấu trúc
câu cũng giống như cấu trúc của cú đoạn
biến tố IP (Inflection Phrase). Do vậy lý thuyết thanh
chắn được khái quát hơn nữa. Chúng ta
giải thích điều nàyqua những ví dụ dưới
đây.
Quan sát câu
đáp (14) trong đoạn thoại dưới đây:
SP1: Những
người chống đối sẽ làm gì?
SP2: (14) They will vote against
government plans to
privatize hospitals
Theo
giả thuyết khái quát, cấu trúc của câu cũng
được hình thành theo cùng một cách gắn kết
giống như cấu trúc của cú đoạn. Nghĩa là
trợ động từ (Aux) will
đã gắn kết với VP đứng sau nó.
Đại từ they gắn kết với cụm
từ vừa được tạo thành để thành câu. Theo giả
thuyết trung tâm đứng trước bổ ngữ và
cái đặc thù đứng trước cùng, chúng ta sẽ
chấp nhận will là trung
tâm, VP là bổ ngữ và cái
đặc thù là they. Nói cách
khác, trợ động từ
will là trung tâm của
một cú đoạn nguyên thức IP, ở đó will gắn kết với VP
tạo nên chiếu xạ trực tiếp I’. Đến
lượt mình I’ gắn kết với they để tạo ra IP. Đây là cú đoạn tình thái. (auxiliary phrase
, còn gọi modal phrase). Vậy cấu trúc của (14)
sẽ có sơ đồ
như hình 12 dưới đây:
hình
12
Chúng ta lưu ý rằng trong hình trên, VP chính là cú đoạn (11) có
lược đồ như hình 9, ở đó giới
ngữ PP (against government
plans to privatize hospitals) có lược đồ như
hình 8. Đỉnh (= NP = plans to
privatize hospitals) trong hình
8, chính là hình 3.
Nút cũng có thể được phát triển
một cách đệ quy
(recursion). Ví dụ: Cú đoạn động từ VP
= “may have been calling” sẽ
được phân tích như hình 13 vì yếu tố tình thái
aux là đệ quy:
Hình
13
Từ đây, chúng ta thấy
sự giống nhau cơ bản giữa hai cấu trúc cú đoạn VP và
NP , tức là giữa V’’ và N’’ theo ký pháp thanh chắn X.
Điều này càng rõ ràng hơn nếu ta so sánh cấu trúc
của hai danh ngữ và động ngữ sau:
NP = the long proof of the theorem
VP = has quickly proved the theorem
Cấu trúc của chúng được Van Valin
[2001] thể hiện như
hai hình 14 và 15:
Hình 14
hình 15
Vậy cả hai biến N” và V” được thay
thế bằng biến X và sơ đồ cấu trúc thanh
chắn kép (hình 4) được khái quát như hình 16:
Hình 16
Trong sơ
đồ trên, dấu ngoặc đơn nói rằng các
thành phần đứng trong nó
không bắt buộc xuất hiện. Cấp
độ ) có
thể được mở rộng hơn nữa
để bao gồm bổ ngữ hoặc phụ tố
cũng như phần đệ quy – (lặp lại :recursion).
Miêu
tả câu 15 dưới đây thế nào?
(15)
The
opposition will vote
against government plans to
privatize hospitals
Đối
chiếu (15) với (14), ta thấy the opposition đóng vai trò của they. Mà the opposition là
một cú đoạn định ngữ DP (Determiner Phrase). DP ® D – N = the – opposition.
Như vậy, trong toàn cục, câu (15) được
tạo thành từ sự gắn kết một thanh chắn (will vote…) với một DP. Như vậy,
sơ đồ cấu trúc của nó là hình 17. Hình này có được từ
hình 12 bằng cách thay nhánh Pr
bằng nhánh DP:
Hình 17
Để
minh họa cụ thể, chúng ta miêu tả chi tiết câu
(16) như hình 18:
(16) He
studies linguistics at the university
Hình 18
Sơ đồ
của những câu bổ ngữ
Khi
mở rộng câu, chúng ta gặp loại câu mà bổ
ngữ là một cụm chủ vị (theo cách gọi
của giới Việt ngữ học), như:
(17) (a) I am sure that you are right
(b) I doubt if you
can help me
(c) Paul dit que Jean viendra
(d) Tôi tin rằng anh Ba sẽ tới
(e) Nó nghĩ
là chúng tôi nên đi
Trong những câu (17) trên đây, các
cụm đứng sau that, if trong tiếng Anh (và tương
tự sau que trong
tiếng Pháp, và sau rằng , là trong tiếng
Việt) được J. Bresnan [1970] gọi là cú đoạn bổ
ngữ complementizer phrase (CP).
Vậy thì cấu trúc cú đoạn “that/if/for CP” nhận
CP là thành tố bổ ngữ
còn that/if/for là trung tâm (mà cú pháp truyền
thống gọi là liên từ).
Về loại câu này, N. Chomsky
[1981], tr. 18 – 19, viết:
“Quan sát các câu (2):
(2) (i) the students prefer for
Bill to visit Paris
(ii) the students prefer that Bill to visit Paris
Động từ prefer có
một đặc tính cố hữu là đòi hỏi
một cú đoạn bổ ngữ có chủ từ là NP và
vị từ là VP (Bill và visit Paris) và một phần tử gọi là “INFL” (inflection)
chỉ rõ vị trí của cái cú đoạn nguyên thức
(the clause in finite or infinitival). Theo Bresnan (1970, 1972) cú đoạn
bao gồm
một COMP và một mệnh đề thành phần S
được phân tích thành NP
– INFL – VP. Vậy thì ở cấp độ LF (dạng
thức lô gích), các câu (2) được biểu hiện
như (3),
với (2i) thì COMP = for và
INFL = [ – Tense],
với (2ii) thì COMP = that và
INFL = [ + Tense],
(3)
The
students [VP prefer [ COMP [S Bill INFL [VP visit Paris]]]]”
J.
Bresnan [1970] đã chứng minh và được các nhà
ngữ pháp tạo sinh
chấp nhận rằng mọi nút S trong một cú
đoạn đều có dạng S ® COMP – .
Như vậy, sơ đồ
cấu trúc của kiểu câu “that
S”, như câu (18) chẳng
hạn, sẽ như hình (19):
(18) That they will vote against
government plans to
privatize hospitals
Hình 19
Cấu trúc nguyên thức IP ở
sơ đồ trên chính là hình 12, sơ đồ của
câu (14)
Theo (Robert D. Van Valin, t.194),
cấu trúc cú đoạn thanh
chắn – X tổng quát sẽ
như hình 20:
INFL =
inflection; TNS = tense;
Lời kết: Thanh
chắn X là một trong những ký pháp then chốt
của ngữ pháp tạo sinh, nó cho phép miêu tả
được nhiều hiện tượng cú pháp
dưới cùng một hình thức. Nó được
thảo luận nhiều và có những biến thể khác
nhau của lý thuyết này.
Đáng chú ý là những công trình của J. Bresnan (1970); N. Horsntein
(1975), E. Selkirk (1975), D. Halitzky (1975), Jackendoff (1977), M. Aronoff
(1976)
Một số thuật
ngữ và chữ tắt dùng trong bài
TÀI
LIỆU TRÍCH DẪN
1. M. Aronoff, 1976, Word Formation in Generative, Linguistic Inquiry , No1
2. J. Bresnan, 1970, “On complementizers: towards a syntactic theory of complement types”, Foundations of Language, 2;
3. N. Chomsky, 1967, Remarks on nominalisation, [trong] Reading in English Transformational Grammar, Jacob & Rosenbaum (Eds)
4. N. Chomsky, 1981, Lectures on Government and Binding, Foris Publications,
5. D. Halitzky, 1975, “Left branch
S’s and NP’s in English: a Bar Notation
analysis, linguistic Analysis 1.
6. N. Horsnstein, 1975, “ S and the S’” convention, Montreal Working Papers in Linguistics
7. R. Jackendoff, 1977, - Syntax: A study of Phrase Structure, Linguistic Inquiry Monograph 2, MIT
8. R. Jacob & P. Rosenbaum (Eds), 1970, Reading in English Transformational Grammar, Blaisdell,Waltham, Mass.
9. Võ Đại Quang, Lý
thuyết thanh biến thể phạm trù (X-Bar Theory):
một công cụ hữu hiệu
trong phân tích cú pháp , Ngôn
ngữ , 2.2004.
10. A. Radford, 1999, Syntactic Theory and the Structure of English; A Minimalist Approach, Cambridge UP,
11. E. Selkirk, 1974, “French liaison and the X’ notation, Linguistic Inquiry 5.
12. R. D. Van Valin, 2001, An Introduction to Syntax, Cambridge UP,